Trận Bạch Đằng 1288
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trên
sông Bạch Đằng thuộc đất
Đại Việt, đây là một trận đánh quan trọng trong các cuộc
Kháng chiến chống Nguyên Mông trong
lịch sử Việt Nam. Đây là
chiến thắng vẻ vang của quân
Đại Việt do Quốc công Tiết chế
Trần Hưng Đạo cùng với
Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và
vua Trần Nhân Tông chỉ huy trước quân
xâm lược Nguyên Mông. Quân Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng (với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị loại khỏi vòng chiến
[1]), và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả
Ô Mã Nhi, Phạm Nhàn
[4] và
Phàn Tiếp
cũng bị bắt sống và dâng lên Thượng hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, có
những 400 chiến thuyền của quân Nguyên rơi vào tay quân Trần thắng lớn.
[2]
Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt
trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông.
[5]
Đại thắng này là một chiến quả của kế cắm cọc trên sông Bạch Đằng của
Hưng Đạo Vương, mở đầu với việc quân sĩ của ông lừa được địch vào trận
địa cọc nhân triều rút. Quân Nguyên vấp phải sự chiến đấu mãnh liệt của
quân Thánh Dực dưới quyền
Nguyễn Khoái
(Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông bị bắt trong trận này), tiếp
theo đó các vua Trần đem binh tới ác chiến, đập tan nát quân Nguyên.
Tiếp theo đó, quân Trần mai phục hai bên cũng dũng vũ xông ra, tiếp tục
diệt tan quân địch. Khi nước triều rút, quân Nguyên hoàn toàn lâm vào
thảm họa.
[2][1]
Với sự hoàn tất sứ mệnh phá hủy đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, toàn
thắng này dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 và hoàn toàn phá tan âm mưu xâm chiếm Đại Việt của nhà Nguyên.
[1]
Chiến tích vẻ vang này của Trần Hưng Đạo cùng với hai vị minh quân
triều Trần đã lưu danh trong lịch sử Việt Nam, và là đề tài cho nhiều
tác phẩm
văn học Việt Nam thời Trung đại, dưới ngòi bút của các danh sĩ
Trương Hán Siêu,
Nguyễn Trãi, ...
[4][6]
Kế hoạch rút quân của quân Nguyên
Vào năm
1287,
nhà Nguyên mở đầu cuộc
xâm lược Đại Việt lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm được
kinh thành Thăng Long không một bóng người, và thủy quân Đại Việt do Phó tướng Nhân Huệ Vương
Trần Khánh Dư chỉ huy đã đánh tan nát đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ trong
trận Vân Đồn.
[1]
Trước tình hình bất lợi, quân Nguyên định tổ chức rút về Trung Quốc
theo nhiều hướng khác nhau. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tí (1288), Hữu thừa
Trình Bằng Phi, Thiên tỉnh Đạt Mộc thống lĩnh kị binh đi đón các cánh
quân di chuyển bằng đường thủy (đoàn thuyền của Trương Văn Hổ). Tuy
nhiên khi qua chợ Đông-Hồ thì bị dòng sông chắn ngang, phải quay lại,
nhưng cầu cống đã bị quân nhà Trần bám theo sau phá hủy. Quân Nguyên rơi
vào thế nguy, trước mặt thì bị quân Trần chận đường, sau lưng là chướng
ngại thiên nhiên. Tuy nhiên quân Nguyên do tra hỏi những tù binh nên đã
tìm được đường thoát, nửa đêm hôm đó cánh quân này đột phá vòng vây
chạy trốn theo con đường khác, phối hợp với một cánh quân Nguyên đang
rút lui để cùng nhau ra khỏi ải Nội Bàng. Tuy bị bất ngờ bởi sự thay đổi
lộ trình của quân Nguyên, quân đội nhà Trần đuổi theo đánh rất sát vào
cánh quân đoạn hậu. Tướng Nguyên là Vạn hộ Đáp Thứ Xích và Lưu Thế Anh
phải dẫn quân quay trở lại phía sau đối phó với quân Trần, sau một trận
giao chiến bắt được và giết các tướng Trần chỉ huy toán quân tập kích là
các tướng Phạm Trù và Nguyễn Kị.
Ngày 7 tháng 3 năm 1288, cánh quân Mông Cổ rút bằng đường thủy đi tới
Trúc Động, tại đây họ bị quân nhà Trần chặn đánh, nhưng tướng Nguyên là
Lư Khuê chỉ huy quân này đánh lui quân nhà Trần và chiếm được 20 thuyền
chiến.
Ngày 8 tháng 3 năm 1288, Ô Mã Nhi không cho quân rút về bằng đường
biển mà đi theo sông Bạch Đằng, vì tính rằng đường biển đã bị thủy quân
nhà Trần vây chặt thì phòng bị đường sông có thể sơ hở, hơn nữa sông
Bạch Đằng nối liền với nội địa Trung Quốc bằng thủy lộ, thuận lợi cho
việc rút lui.
Bố trí quân Trần
Năm 1288, sau khi rút lui khỏi kinh đô Thăng Long,
Trần Hưng Đạo
đã quyết định đánh một trận lớn chống quân Mông Cổ xâm lược đi vào Đại
Việt thông qua sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng trước đó cũng là một địa
danh lịch sử khi
Ngô Quyền đã từng đánh thắng quân Nam Hán trong năm
938, kết thúc gần 1000 năm
Bắc thuộc. Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của con sông này để vạch ra thế trận cọc để mai phục quân Mông Nguyên
Trần Hưng Ðạo chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai
phục lớn trên sông Bạch Ðằng, là nơi đoàn thuyền của quân Nguyên sẽ phải
đi qua trên đường rút chạy. Các loại gỗ lim, gỗ táu đã được đốn ngã
trên rừng kéo về bờ sông và được đẽo nhọn cắm xuống lòng sông ở các cửa
dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh làm thành những bãi
chông ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm nằm
bắt ngang qua sông Bạch Ðằng nhưng phía dưới sông Chanh, đầu sông Kênh,
có thể sử dụng làm nơi mai phục quân lính phối hợp với bãi chông ngầm
nhằm ngăn chận thuyền địch khi nước rút xuống thấp. Thủy quân Đại Việt
bí mật mai phục phía sau Ghềnh Cốc, Ðồng Cốc, Phong Cốc, sông Khoái,
sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công, còn bộ binh bố trí ở Yên Hưng, dọc
theo bờ bên trái sông Bạch Ðằng, Tràng Kênh ở bờ bên phải sông Bạch
Ðằng, núi Ðá Vôi ..., ngoại trừ sông Ðá Bạc là để trống cho quân Nguyên
kéo vào. Ðại quân của hai vua đóng quân ở Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương)
trong tư thế sẵn sàng lâm trận cho chiến trường quyết liệt sắp xảy ra.
Diễn biến trận đánh
Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước
lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua chạy vào sâu
bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghinh chiến,
các tướng Phàn Tham Chính, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi thuyền quân
Nguyên đã vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tướng
Nguyễn Khoái
dẫn các quân Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào
khúc sông đã đóng cọc, trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống mới
quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Bình chương Áo Lỗ Xích
của Nguyên Mông đã bị bắt sống trong cuộc chiến đấu quyết liệt của quân
Thánh Dực.
[2]
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông - Vân Trà từ các phía Điền Công, Gia
Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng
trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ dàn ra trên sông và dựa vào
Ghềnh Cốc thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông.
Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai
vua Trần đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Giáp
(sông Kinh Thần, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng
và cản bước tiến của địch, cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên
càng lúng túng và tổn thất rất nặng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,
"nước sông do vậy đỏ ngầu cả"[2]. Bị bất lợi hoàn toàn, rất nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi
[1].
Bị tấn công tới tấp trên sông, một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy
lên bờ sông bên trái của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát, nhưng vừa lên
tới bờ họ lại rơi vào ổ phục kích của quân Trần, bị chặn đánh kịch
liệt. Trời về chiều khi giao tranh sắp kết thúc, Ô Mã Nhi cùng với binh
lính dưới quyền chống cự tuyệt vọng trước sự tấn công của quân Trần, vì
quân Nguyên của Thoát Hoan không tới cứu viện, nên đạo quân này hoàn
toàn bị quân Trần tiêu diệt. Theo Nguyên sử, truyện của Phàn Tiếp chép
rằng kịch chiến xảy ra từ giờ mão đến giờ dậu, tức là từ sáng kéo dài
đến chiều tối mới kết thúc. Nguyên Sử có chép về tướng Nguyên Phàn Tiếp:
"Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chặn. Triều sông
Bạch Đằng xuống, thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn
như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt
xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc độc giết". Sông Bạch Đằng nước
ròng, tức nước lớn rất nhanh mà nước rút cũng mạnh, nên khi nước rút
thuyền của quân Nguyên bị cọc gỗ đâm trúng, lật đỗ, quân Nguyên chết
đuối hoặc bị giết vô số.
[7]
Kết cục
Quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành
bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi dâng lên Thượng hoàng
Trần Thánh Tông. Thượng hoàng đã vui vẻ hậu đãi những viên bại tướng
này.
[2] Khoảng hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại ra khỏi vòng chiến
[1].
Tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi một
bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết.
[1]
Cánh thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thắng vinh
quang của quân Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng năm 1288 được xem là
một
trận đánh hủy diệt và thủy chiến lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc
Việt Nam,
và cũng được xem là thắng lợi tiêu biểu nhất của quân Đại Việt trong ba
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông, dẫn đến chấm dứt
thắng lợi cho Đại Việt trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần
thứ ba.
[1][5]
Mặc dầu về sau này, "
Giao Chỉ" hãy còn "ngứa ngáy trong tim
Hốt Tất Liệt", đại thắng của
Quân đội
Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng không chỉ hoàn tất mục đích đập vỡ
đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, mà còn hoàn toàn phá vỡ âm mưu
xâm lược Đại Việt, và qua đó
Đế quốc Mông Cổ không thể nào làm chủ cả
Đông Nam Á.
[1]
Giả thuyết khác về bãi cọc
Có ý kiến cho rằng, ngay từ khi nhận chức Tiết chế ở Bình Than,
Trần Quốc Tuấn đã theo kế của
Ngô Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở Bạch Đằng. Số cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ sung thêm
[8].
Ngay từ năm 1284, Trần Quốc Tuấn đã giăng bẫy ở đây và muốn dồn địch
vào trận địa cọc, nhưng quân Trần yếu thế không thực hiện được ý định.
Kết quả quân Nguyên vượt qua an toàn.
Năm 1287, khi Ô Mã Nhi tiến vào cũng mang quân đông và mạnh khiến
quân Trần không thể dồn quân Nguyên tới bãi cọc vào thời điểm triều rút,
do đó việc bố trí cọc cũng vô hiệu.
Theo ý kiến của Trần Xuân Sinh, các tướng Nguyên không thể không biết về bài học
trận Bạch Đằng, 938
của Nam Hán; nhưng do hai lần đã đi qua dễ dàng, quân Nguyên chủ quan
không đề phòng cạm bẫy ở sông Bạch Đằng năm 1288. Chính vì vậy khi rút
lui đã bị sa vào trận địa và bị diệt hoàn toàn
[9].
Trong thi ca
Chiến công trên sông Bạch Đằng vào năm 1288 của các vua Trần và Trần
Quốc Tuấn, cùng với đại thắng của Ngô Quyền trong trận đánh tại đây]]
thưở xưa, đã khiến cho dòng sông này trở nên gắn bó sâu sắc với lịch sử
dân tộc Việt Nam. Có thể kể đến bài
Phú sông Bạch Đằng của một môn khách của Hưng Đạo Đại Vương là
Trương Hán Siêu (mất năm
1354) được coi là một bản hùng văn trong lịch sử
văn học Việt Nam. Qua tác phẩm này, Trương Hán Siêu đã ca ngợi công đức của hai vị minh quân Trần Thánh Tông cùng với Trần Nhân Tông (
"Nhị Thánh hề tịnh minh, tựu thử giang hề tẩy giáp binh" - dịch là :
"Hai vua thật anh minh, đến sông này dẹp đạo binh".), và đề cao Hưng Đạo Đại Vương (
"Duy thử giang nhi đại tiệp, do Đại Vương chi tặc nhàn", dịch nghĩa :
"Nghĩ có đại thắng trên sông này, do bởi Đại Vương [biết thế] giặc nhàn"). Tác giả cũng nêu cao khí phách của Vương triều nhà Trần - "hào khí
Đông A" - đại thắng hiển hách trong trận Bạch Đằng.
[6]
Vua
Trần Minh Tông về sau cũng viết bài thơ "Bạch Đằng Giang", trong đó có đoạn :
[10]
- "Non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt,"
- "Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoáng qua như một lúc dựa vào lan can."
- "Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời cuối ngày đỏ ối,"
- "Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô."
Nguyễn Trãi - vị
anh hùng dân tộc của Đại Việt dưới triều
nhà Hậu Lê, cũng có bài thơ "Bạch Đằng Hải Khẩu", trong đó có đoạn :
[11]
- "Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc;"
- "Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng."
- "Quan hà bách nhị do thiên thiết ;"
- "Hào kiệt công danh thử địa tằn"
Dịch nghĩa :
[11]
- "Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một ;"
- "Như mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng".
- "Quan hà hiểm hai người chống trăm người do trời xếp đặt ;"
- "Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi."
Cũng trong thời kỳ ấy, danh sĩ
Nguyễn Mộng Tuân có bài "Hậu Bạch Đằng Giang Phú", ca ngợi toàn thắng này, với phần đầu ghi là :
"Ngắm
sông Đằng bát ngát ; nhớ Hưng Đạo oai phong/Miền Hải Đông vang lừng nhờ
có sông Đằng oanh liệt/Dòng họ Trần bất diệt nhờ có chiến công Bạch
Đằng bất hủ vậy". Bài thơ ấy đã tôn vinh công đức của các vua Trần,
cũng với biết bao vị kiệt tướng cùng với toàn dân đồng lòng chiến đấu,
gây nên thảm họa Bạch Đằng cho quân xâm lược Nguyên Mông, đến mức mà :
"Tiếng thét vang trời, núi non tưởng chừng sạt đỉnh; thây trôi đầy biển, tôm cá được dịp đầy nang!/Thế ta bừng bừng, trận Xích Bích nào sánh kịp; cảnh giặc hoảng loạn, gió Hoài, Phì nọ truyền sang!".
[4]